Nội dung bài viết
I/ Thập nhị nhân duyên, 12 nhân duyên (Paticca-samuppāda) là gì?
“Không thể tìm ra một Tạo Hóa, một Brahmā, hay một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống. Chỉ có những hiện tượng Tùy Thuộc Sanh Khởi!” — Thanh Tịnh Đạo
Tiến trình của hiện tượng Tái Sanh được Đức Phật giải thích đầy đủ trong Liên Quan Tương Sinh (Thập Nhị Nhân Duyên, Paṭicca Samuppāda) như sau:
Paṭicca là “bởi vì” hay “bởi”, hay “tùy thuộc nơi”, “liên quan”. Samuppāda là “phát sanh”, hay “Tương Sinh”. Chiếu y theo ngữ nguyên, danh từ ấy là “phát sanh bởi vì”, hay “tùy thuộc phát sanh” hay “Liên Quan Tương Sinh”. Paṭicca Samuppāda áp dụng cho trọn công thức Nhân Quả gồm tất cả 12 Nhân và Quả liên quan với nhau, Pāli ngữ gọi là Paccaya và Paccayuppanna.
– Bởi vì A sanh nên B phát sanh, bởi vì B sanh nên C phát sanh. Khi nào không có A tất nhiên không có B. Khi nào không có B thì C cũng không có. Nói cách khác, cái này như vầy thì có cái kia; cái này không phải như vầy thì cái kia không có.
Pháp Liên Quan Tương Sinh (Thập Nhị Nhân Duyên) chỉ giải thích “sự phát sanh của một trạng thái tùy thuộc nơi trạng thái trước kế đó”
Đức Phật sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, ngài đã để dành bảy ngày đầu tiên để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trong đêm cuối cùng của bảy ngày ấy, ngài quán xét thập nhị nhân duyên theo chiều thuận, như sau:
Tùy thuộc nơi Vô Minh (Avijjā), Hành (Saṇkhārā) phát sanh
Tùy thuộc nơi Hành, Thức (Viññāṇa) phát sanh
Tùy thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (Nāma-Rūpa) phát sanh
Tùy thuộc nơi Danh-Sắc, Lục Xứ (Saḷāyatana) phát sanh
Tùy thuộc nơi Lục Xứ, Xúc (Phassa) phát sanh
Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (Vevadā) phát sanh
Tùy thuộc nơi Thọ, Ái (Taṇhā) phát sanh
Tùy thuộc nơi Ái, Thủ (Upādāna) phát sanh
Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (Bhava) phát sanh
Tùy thuộc nơi Hữu có sự Sanh (Jāti)
Tùy thuộc nơi Sanh có Lão và Tử (Jarāmaraṇa)
Quả phát sanh vì có Nhân. Vậy, nếu không có Nhân tức không có Quả. Nếu Nhân chấm dứt, tất nhiên Quả cũng chấm dứt. Tùy thuộc nơi Sanh có Lão, Tử, sầu muộn, u, và thất vọng. Đó là trọn vẹn các yếu tố cấu thành đau khổ
Tận diệt Vô Minh dẫn đến chấm dứt Hành.
Chấm dứt Hành dẫn đến chấm dứt Thức.
Chấm dứt Thức dẫn đến chấm dứt Danh-Sắc.
Chấm dứt Danh-Sắc dẫn đến chấm dứt Lục Xứ
Chấm dứt Lục Xứ dẫn đến chấm dứt Xúc.
Chấm dứt Xúc dẫn đến chấm dứt Thọ.
Chấm dứt Thọ dẫn đến chấm dứt Ái.
Chấm dứt Ái dẫn đến chấm dứt Thủ.
Chấm dứt Thủ dẫn đến chấm dứt Hữu.
Chấm dứt Hữu dẫn đến chấm dứt Sanh.
Chấm dứt Sanh dẫn đến chấm dứt Lão, Tử, sầu muộn, ta thán, đau ổ, buồn rầu, và thất vọng. Đó là chấm dứt hậu quả của các yếu tố cấu thành đau khổ.
Hai yếu tố đầu tiên của Liên Quan Tương Sinh (Thập Nhị Nhân duyên), Vô Minh và Hành thuộc về quá khứ. Tám yếu tố giữa thuộc về hện tại. Và hai yếu tố cuối cùng thuộc về vị lai
Cả hai, Hành (saṇkhārā) Thiện và Bất Thiện, và Hữu (bhava), đều được xem là Nghiệp (kamma). Vô Minh (avijjā), Ái (taṇhā) và Thủ (upādāna) là khát vọng hay Phiền Não (kilesa).
Cả hai, Hành (saṇkhārā) Thiện và Bất Thiện, và Hữu (bhava), đều được xem là Nghiệp (kamma). Vô Minh (avijjā), Ái (taṇhā) và Thủ (upādāna) là khát vọng hay Phiền Não (kilesa).
Như vậy Vô Minh, Hành, Ái, Thủ và Nghiệp Hữu là năm nguyên Nhân trong quá khứ trợ cho năm Quả trong hiện tại là Thức tái tục, Danh-Sắc, Xứ, Xúc và Thọ phát sanh. Cùng thế ấy Ái, Thủ, Nghiệp Hữu, Vô Minh và Hành trong hiện tại trợ cho năm Quả kể trên phát sanh trong tương lai.
Tuy nhiên, giờ phút nào mà Trí Tuệ thay thế Vô Minh và luồng sống Chứng nghiệm được bản chất của Níp-bàn / Niết Bàn (Nibbana dhatu) thì, chỉ đến chừng ấy, tiến trình sanh tử mới chấm dứt
“Chính Vô Minh dẫn dắt ta đi vòng quanh ảm đạm.
Rầy đây mai đó của chuỗi dài sanh-tử, tử-sanh vô cùng tận.
Nhưng đối với người hiểu biết thì không có cõi sau đây chờ đợi!”
Thập nhị nhân duyên là sự thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) do tuệ quán của Đức Phật, nhằm mục đích soi rọi tiến trình sinh tử luân hồi, khổ đau của chúng sanh trong 3 giới, 4 loài, đồng thời khai mở tuệ giác để chấm dứt tiến trình ấy.
Thập nhị nhân duyên là sự thật, là chân lý, là thực tại rốt ráo, là chân đế đệ nhất nghĩa (paramattha), chỉ có thể thấy nó bằng tuệ quán, bằng bát-nhã chiếu soi, bằng trực giác như thị chứ không thể hiểu hay biết nó bằng suy luận, lý luận, bằng lý trí vọng thức. Do vậy, thập nhị nhân duyên không phải là triết học, không phải là lý thuyết, quan niệm, quan điểm, lập trường do đầu óc, tư duy, khái niệm, ý niệm đẻ ra (paññatti) – mà là trình bày sự thực, như thực bằng tuệ giác chứ không phải bằng trí năng!
Thập nhị nhân duyên lấy sự khổ và sự chấm dứt khổ làm cứu cánh, nó không hề bàn đến sự tiến hóa của vũ trụ, nguồn gốc của vũ trụ, sinh thành hay hoại diệt của vũ trụ, những bí mật hoặc hỗn mang của vũ trụ. Thập nhị nhân duyên lấy con người, chúng sanh làm trọng tâm, nhưng con người, chúng sanh ấy không có đàn ông, đàn bà, ngựa, heo, a-tu-la, ngạ quỷ mà tất cả chỉ có ngũ uẩn, căn, trần, xứ, giới, danh, sắc; nó không bàn đến gia đình, xã hội, giáo dục hay an ninh, an toàn, môi sinh, văn hóa. Sự tương quan giữa chúng là tất yếu, nhưng giải quyết các vấn đề ấy, chỉ là cách giải quyết phần ngọn chứ không phải giải quyết phần gốc, giải quyết phần quả chứ không phải giải quyết phần nhân. Đức Phật là bậc Toàn Tri Diệu Giác, ngài giải quyết tận căn cội, căn nguyên của đau khổ chứ không bao giờ giải quyết cành, nhánh ngọn hoặc kết quả của đau khổ.
II/ Giải thích thập nhị nhân duyên theo luân hồi, tử sanh

1. Vô Minh (Avijjā)
Vô minh tức là không Nhận thức Chân Lý về đau khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ – là nguyên nhân chính làm động lực thúc đẩy, chuyển động bánh xe đời sống. Nói cách khác, Vô Minh là không Nhận thức thực tướng của Vạn Pháp, hay không thấu đáo hiểu biết chân tướng của chính mình. Chính màn Vô Minh như lớp mây mù bao phủ, che lấp mọi sự hiểu biết Chân Chánh (Chánh Kiến).
Đức Phật dạy rằng:
“Vô Minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy chúng sanh quây quần quanh lộn”.
Đến khi lớp Vô Minh bị phá tan để trở thành Tri Kiến, như trường hợp của chư Phật và chư vị Vô Sanh (A La Hán) thì mọi vấn đề Nhân và Quả cũng chấm dứt.
Trong kinh Itivuttaka, Đức Phật dạy:
“Người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối tăm dầy đặc sẽ không còn thênh thang đi mãi nữa. Đối với người ấy không còn vấn đề Nhân và Quả”.
Không thông hiểu rằng có quá khứ, vị lai, cả hai quá khứ vị lai, và pháp “Tùy Thuộc Phát Sanh” cũng được xem là Vô Minh, Avijjā
2. Hành (Saṇkhārā)
Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành (Saṇkhārā) phát sanh. Do vô minh ở trên mà hành này sanh khởi. Hành có rất nhiều nghĩa, tùy theo mỗi trường hợp, nhưng ở đây hành xoay quanh nghĩa tư tác, (cetanā), tức là những cố ý, chủ ý tạo tác các nghiệp thiện, bất thiện và bất động rồi tái sanh trong 3 giới, 4 loài.
Nếu vô minh là nhân thì hành là quả. Quả của hành là những tư tác của 29 tâm sau đây:
– 12 bất thiện tâm: nghiệp bất thiện.
– 8 tịnh quang thiện tâm: nghiệp thiện.
– 5 Sắc giới thiện tâm: nghiệp bất động
– 4 Vô sắc giới thiện tâm: nghiệp bất động.
Các nghiệp này được gọi là hành nên 3 nghiệp còn được gọi là bất thiện hành, thiện hành và bất động hành.
Ngoài ra tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta cũng được gọi là hành: thân hành, khẩu hành và ý hành. Những lời nói, việc làm, tư tưởng của chúng ta được dẫn dắt bởi tư tác, có tạo nghiệp; dầu thiện, ác hay bất động, thảy đều bị chi phối bởi hành, đưa đến tái sanh. Những hành động dù tốt, dù xấu, dù là thiền định đều bắt nguồn bởi vô minh, từ vô minh hoặc do vô minh tạo động cơ thúc đẩy, đưa chúng sanh vào cuộc hành trình xa xôi diệu vợi, lênh đênh vô định trong cuộc tử sinh chìm nổi không thấy bến bờ. Đôi khi càng đi càng xa cách “quê hương” như hai câu thơ của Trần Thái Tông: “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, nhật viễn gia hương vạn lý trình!”
Nếu hành, tư tác, nghiệp do tham sân si thì đọa lạc vào 4 ác đạo và người bất hạnh.
Nếu hành, tư tác, nghiệp do vô tham, vô sân, vô si thì tái sanh làm người hữu phúc và 6 cõi trời dục giới.
Nếu hành, tư tác, nghiệp quy tụ các thiền chi thì hóa sanh làm trời phạm thiên hữu sắc và vô sắc.
8 Siêu thế tâm của 4 đạo và 4 quả không còn bị hành chi phối vì các tâm này có khuynh hướng xa rời vô minh và tận diệt vô minh. Do vậy, lời nói, việc làm, tư tưởng của các bậc thánh giả không còn bị hành, tư tác và nghiệp chi phối nữa. Lúc ấy tư tác được thay thế bởi tuệ (paññā). Tuệ có công năng đoạn lìa các hành nghiệp, là thành phần chánh yếu trong các loại thánh đạo tâm.
Duyên hành, thức sanh khởi (saṅkhāra paccayā viññānaṃ)
3. Thức (viññāṇa)
Do hành ở trên mà thức sanh khởi. Tức là do thiện hành, bất thiện hành, bất động hành làm nhân nên có thức là quả. Đây là thức tái sanh (paṭisandhi) ở tam giới, còn được gọi là tam giới dị thục tâm, có cả thảy 32 tâm quả: Dục giới có 23, sắc giới có 5 và vô sắc giới có 4.
– Nếu khi ta làm việc ác, tạo nghiệp bất thiện, bất thiện hành là nhân thì nó sẽ đưa ta đầu thai vào 4 khổ cảnh và người bất hạnh
– Nếu ta làm việc thiện, tạo nghiệp thiện, thiện hành là nhân thì tùy theo “kiết sanh thức” cùng phát sanh với xả hay hỷ quyết định. Một, nếu là xả thì ta sẽ tái sanh làm người bất hạnh hoặc chư thiên ít phước. Hai, nếu là hỷ làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì được làm người hoặc chư thiên tốt hơn.
– Nếu được “hữu trí” làm kiết sanh thức, đầy đủ 3 nhân “vô tham, vô sân, vô si” thì được tái sanh làm người hoặc làm trời hữu phúc, sang cả và ngũ quan toàn hảo.
– Nếu là “vô trí” làm kiết sanh thức thì tái sanh làm người chỉ có hai nhân “vô tham, vô sân” sẽ thua kém nhiều phước báu về trí năng.
– Nếu ta tu tập thiền định, chứng 5 thiền ở sắc giới, tạo nghiệp bất động hành là nhân, thì ta sẽ nhận quả là 5 sắc giới dị thục tâm, sẽ hóa sanh vào cõi trời sắc giới phạm thiên với đầy đủ 3 nhân. Và nếu chứng 4 thiền ở vô sắc giới, tạo nghiệp bất động hành là nhân, thì ta sẽ nhận quả là 4 vô sắc giới dị thục tâm, sẽ hóa sanh vào cõi trời vô sắc giới phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.
Như vậy, thức tái sanh (paṭisandhi) là do tư tác (cetanā), do hành nghiệp chi phối, quy tụ năng lực ở chặp tư tưởng cuối cùng (cuti – tử tâm) để quyết định sanh thú, tái sanh, đầu thai hoặc hóa sanh vào cảnh giới tương ứng.
Duyên thức, danh-sắc sinh khởi (viññānapaccayā nāmarūpaṃ).
4. Danh-sắc (nāmarūpa)
Tùy thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (Nāma-Rūpa) phát sanh
Khi một chúng sanh chết, tất cả cái gọi là thân và tâm (danh và sắc cũ) đều phải bỏ lại, không mang theo bất kỳ một cái gì, đoạn diệt hết. Nói như vậy, nhưng không phải là đoạn kiến, là hư vô. Chính tư tưởng cuối cùng, một niệm, một sát-na tâm thức tái sanh, theo năng lực hành nghiệp đưa tâm thức đến cảnh giới tương ứng.
Một người làm việc thiện hay bất thiện, khi lâm tử đều có phát sanh 3 hiện tượng: Nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng. Thú tướng chính là cảnh giới mai hậu. Thức tái sanh chỉ như là một ý nghĩ tương ưng với cảnh giới, nó bắt gặp cảnh giới mới và tái sanh ngay tức khắc, nhưng không phải là thường kiến.
Thức tái sanh (một ý nghĩ) như vậy là một tâm. Tâm không khởi một mình, ít nhất đi theo nó là 7 biến hành tâm sở và một số tâm sở trong 6 biệt cảnh tâm sở (7 biến hành tâm sở: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn. 6 biệt cảnh tâm sở: Tầm, tứ, thắng giải, tấn, hỷ, dục.).Ngoài ra nếu là bất thiện thì nó quy tụ thêm các tâm sở bất thiện.
* Có 4 hình thức của thức tái sanh:
– Noãn sanh: Được sinh ra từ trứng – thức tái sanh nương gá vào trứng.
– Thai sanh: Thức tái sanh nương gá vào thai bào.
– Thấp sanh: Thức tái sanh nương gá vào chỗ ẩm thấp, tối tăm, ô uế, rác rưởi.
– Hóa sanh: Đột ngột biến hóa ngay tức khắc bằng thân xác kẻ trưởng thành (như chư thiên, phạm thiên, ngạ quỷ).
Khi thức tái sanh lìa danh sắc cũ, nó tức khắc xảy ra đồng lúc với nghiệp sanh sắc (Sắc do nghiệp sanh – sắc này có được khi tinh trùng và noãn châu gặp nhau.) được gọi là sắc thụ thai (kalala) khởi đầu cho một kiếp sống. Sắc thụ thai này nhỏ xíu, mắt thường không thể thấy, chính nó làm nền tảng cho tinh cha và huyết mẹ để tạo nên cái phôi đầu tiên cho một chúng hữu tình.
Như vậy, thức tái sanh, sở hữu tâm và những nghiệp sanh sắc chính là danh, sắc được hình thành trong bụng mẹ, nó mang trong tự thân đầy đủ tất cả nghiệp quá khứ của chúng sanh ấy.
Nói cách khác, danh, sắc là quả có thức là nhân.
Duyên danh sắc, lục nhập sanh khởi (nāmarūpa paccayā salāyatanaṃ)
5. Lục nhập (salāyatana)
Do duyên danh sắc mà có lục nhập.
Khi sắc thụ thai kết hợp với tinh cha, huyết mẹ (sắc do vật thực sanh) thì đã tượng hình một giống hữu tình, lần lần lớn lên để hoàn chỉnh lục căn. Do vậy, ta không ngạc nhiên gì khi kiếp chót của đức đại bồ-tát, ngài biết rõ cả 3 giai đoạn: Lúc mới đầu thai, lúc ở trong bụng mẹ và lúc sinh ra.
Khi có lục căn thì có đối tượng của lục căn là lục trần. Lục căn được gọi là sáu nội xứ và lục trần được gọi là sáu ngoại xứ. Và từ đây, từ sáu cửa này mà phát sanh các lộ trình tâm. Cần lặp lại rằng, thức sẽ không khởi một mình, tối thiểu cũng có những tâm sở như xúc (giao tiếp), tác ý (hướng tâm đến đối tượng), thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), tư (ý chí, cố ý) và đấy là duyên khởi sau lục nhập.
Duyên lục nhập, xúc sanh khởi (salāyatanapaccayā phassaṃ).
6. Xúc (phassa)
Do duyên lục nhập mà có xúc.
Xúc là giao tiếp, va đụng. Ở đây là sáu nội xứ giao tiếp với sáu ngoại xứ nên có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
Xúc là một tâm sở, là tâm sở đầu tiên trong 7 biến hành tâm sở, mà từ đó, các lộ trình tâm được vận hành. Do vậy, có những trường hợp có xúc, có sự giao tiếp, va đụng nhưng lộ trình tâm không vận hành thì không được gọi là xúc. Như mắt người chết hoặc khi ta nhìn một vật, một cảnh sắc mà ta không “để tâm” ở đấy. Muốn xúc trở thành xúc tâm sở thì xúc ấy phải có thức hoặc tác ý ở bên sau: Có tác ý, thức thì mới có xúc.
Vậy, hợp lý, hợp với sự thực hơn, ta có thể sắp xếp sự diễn tiến của các tâm sở: Tác ý, xúc, thọ, tưởng, tư… Hoặc (thức) danh sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Xúc tâm sở là quả chứ không phải nhân. Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại mà chúng hữu tình nào cũng có sẵn, đó là: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
Duyên xúc, thọ sinh khởi (phassapaccayā vedanaṃ).
7. Thọ (vedanā)
Do duyên xúc mà có các cảm thọ. Đây là 6 thọ căn bản: Thọ do nhãn xúc sinh gọi là nhãn thọ. Thọ do nhĩ xúc sinh gọi là nhĩ thọ. Thọ do tỷ xúc sinh gọi là tỷ thọ. Thọ do thiệt xúc sinh gọi là thiệt thọ. Tương tự là thân thọ và ý thọ.
Thọ là cảm giác. Ví dụ: Đưa tay sờ nước đá ta có cảm giác lạnh. Sờ là xúc, lạnh là cảm thọ, cảm giác.
Rải rác trong kinh điển, khi nói 3 thọ ở nơi thân thì có thọ khổ, thọ lạc và thọ xả (chỉ có thân mới thọ khổ, lạc; còn mắt, tai, mũi, lưỡi luôn luôn là thọ xả). Ba thọ ở nơi tâm là hỷ, ưu và xả (xả là lúc không có hỷ hay ưu chứ không phải xả của đệ ngũ thiền hoặc xả của tứ vô lượng tâm).
Do duyên thọ, ái sinh khởi (vedanāpaccayā taṇhā).
8. Ái (taṇhā)
Do duyên cảm thọ mà phát sanh ái.
Ái hay ái dục có bản chất thèm muốn hay khao khát các đối tượng yêu thích, nhưng không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ được thỏa mãn.
Ái dục là một cơn khát lạ lùng, càng uống càng khát thêm. Các loại ngạ quỷ và các vị chư thiên đều có chung một cái khát do ái này. Ngạ quỷ thì khát ăn, khát uống, khát tất cả ngũ trần nhưng chúng không bao giờ có được. Các vị trời thì có đầy đủ dục lạc ngũ trần nhưng họ vẫn luôn luôn khao khát, mong được thụ hưởng thêm nữa, mong được thỏa mãn thêm nữa.
Thọ khổ thì từ chối khổ, tìm lạc
Thọ lạc thì đi tìm lạc nữa.
Loài người cũng tương tự thế. Người đói khổ thì mong ước có được chén cơm, manh áo. Người giàu có, mặc dầu đã sở hữu nhiều của cải, tài sản, địa vị, danh vọng nhưng thường thì họ còn khao khát tìm kiếm, mong được giàu, sang hơn nữa. Về mặt này, cường độ khát ái, khát dục của người giàu còn hơn cả người nghèo.
Ngày nay, các nước thịnh cường về vật chất, bá chủ về quyền lực vẫn muốn nước mình thịnh cường hơn nữa, có nhiều quyền lực hơn nữa là đặc trưng bản chất của ái dục muôn đời của chúng sanh: không bao giờ toại nguyện, thỏa lòng.
8.1 Ái trong cõi dục hay dục ái (kāmataṇhā)
Đây là các loại ái đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà đối tượng của nó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Mắt không bao giờ chán xem cảnh sắc xinh đẹp, phố thị lâu đài; tiện nghi vật chất xa hoa, hào nhoáng; người nam, người nữ mà nó thích khoái…
Tai không bao giờ chán nghe những âm thanh ngọt ngào, quyến rũ, trầm bỗng, du dương; tiếng nhạc lời ca mùi mẩn hoan lạc và cả âm thanh giới tính…
Mũi không bao giờ chán ngửi những mùi thơm, các loại nước hoa, các hương liệu, mùi các thức ăn kích thích khẩu vị, mùi đặc trưng lôi cuốn, hấp dẫn giới tính…
Lưỡi không bao giờ chán các vị ngon, các loại thức uống thích khoái, các món ăn kiểu cách, xa hoa, cầu kỳ, đôi khi không từ nan một ác độc, tàn bạo nào – ví dụ thí ăn óc khỉ, lưỡi chim sẻ…
Thân không bao giờ chán sự xúc chạm mềm mại, êm ái từ giường nệm, ghế ngồi, chân đi, áo quần, vật dụng tiện nghi sinh hoạt, cả bồn tắm, chỗ đi cầu, và sự xúc chạm mê hoặc cho ái chính là giới tính.
– Ý đối tượng của nó là pháp, tức là cảnh pháp; cảnh này ở trong tâm, được lưu giữ từ ngũ trần hoặc cảnh do ý tưởng tượng ra. Cảnh ở trong tâm có mặt ở cả 3 thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Ý này cũng không bao giờ chán săn tìm những cảnh giới từ sắc, thanh, hương, vị, xúc do nó nhào nặn, vẽ vời thêm, sáng tạo ra!
Sáu ái vừa kể thuộc thế giới lục trần. Bên cạnh đó, còn có sáu ái thuộc lục căn nữa.
– Mắt, ta thường muốn mắt ta trong, xanh, đẹp (phần phù trần căn), và muốn mắt ta phải trông rõ hơn, xa hơn (phần tịnh sắc căn).
– Tai, ta thường muốn tai ta đẹp, thành quách đầy đủ, thùy châu to, dày (phần phù trần căn), và muốn nghe xa hơn, rõ hơn, tinh hơn (phần tịnh sắc căn).
– Mũi, cũng tương tự vậy, mũi phải thẳng, dọc dừa, chuẩn đầu dày, to phải có tướng phú quý (phần phù trần căn), ngoài ra lại còn muốn thần kinh nhạy bén hơn (tịnh sắc căn) để tăng hiệu năng tỷ giác.
– Lưỡi dài, rộng cũng là một phúc tướng. Nếm được tất cả những vị tinh tế cũng nhờ thần kinh lưỡi tốt. Cả hai phần: phù trần căn và tịnh sắc căn của lưỡi cũng phát sanh một loại ái dục.
– Thân phải nhẹ nhàng, da mịn và tươi sáng. Do ái dục ở thân nên ai cũng yêu thân mình; tẩm bổ cho thân, xức nước hoa, ăn mặc lụa là gấm vóc hoặc trang điểm cho cái thân. Biết bao nhiêu loại thuốc thời nay, tốn cả hằng tỷ đô la để giữ gìn thân, làm đẹp thân, nước da phải sáng phải mịn, để tăng thêm sự hấp dẫn cho hình vóc, diện mạo…
– Ý, muốn mình thông minh, trí nhớ tốt, nhiều kiến văn, là ái dục thuộc về ý, về tinh thần. Nó còn nảy sinh tham vọng thay đổi gène di truyền, kết hợp những thành tựu vinh quang của khoa học hiện đại để biến mình thành thiên tài, thần đồng, thành những bộ óc khoa học kỳ vĩ. Ái dục ở ý căn rất vi tế, rất khó nhận biết.
Nói tóm lại, ái trong cõi dục như vậy là có 12 (lục căn 6, lục trần 6), nếu nhân cho 3 thời thì có 36 ái dục.
8.2 Ái trong cõi sắc hay sắc ái (rūpataṇhā)
Sắc ái (rūpataṇhā), là ái dục trong cõi sắc, sắc giới; tức là yêu thích, ham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần: đó là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định.
Loại ái dục này còn được xem như là hữu ái (bhavataṇhā), tức là khao khát được trường xuân, trường tồn miên viễn.
Hữu ái ở lục căn: Là mong muốn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý của mình đẹp mãi, xuân mãi, trẻ mãi, sống mãi. Đấy cũng là những điều tốt đẹp được Chư Tăng hay chúc mừng cho mọi người: sắc đẹp, sức khỏe, vô bệnh, sống lâu…
Hữu ái ở lục trần: Khi đã yêu thích cái gì rồi thì mong muốn đối tượng ấy mãi mãi thường còn. Đấy là tất cả cái gì thuộc sắc, đối tượng của nhãn căn: Lâu đài, vườn tược, vợ con, tiện nghi vật chất. Đấy là tất cả cái gì thuộc về âm thanh, đối tượng của nhĩ căn: Tiếng nói của người mình yêu thương, tiếng hát, lời ca mình yêu thích…
Có mấy câu thơ của vua Tự Đức khi khóc Bằng Phi – là minh chứng cho loại hữu ái này:
“- Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi!”
Tương tự thế là hương, vị, xúc và pháp. Tất cả thế giới căn trần này, tạo thành 12 loại ái, được gọi là hữu ái (bhavataṇhā); nhân cho 3 thời, cả thảy có 36 hữu ái.
8.3 Ái trong cõi vô sắc hay là vô sắc ái (arūpataṇhā)
Vô sắc ái (arūpataṇhā) là loại ái dục phát sanh do chán các sắc, sắc tướng, sắc pháp. Họ chán luôn cái thân sắc vật chất dù thô hay tế. Họ chỉ muốn sống bởi các ý niệm, khái niệm trừu tượng mà thôi. Tương ứng với loại ái dục này, là từ bỏ các thiền sắc giới để tu tập các thiền vô sắc giới. Họ không còn các cảm thọ thô tháo nữa mà chỉ còn trạng thái xả và định.
Vô sắc ái còn được xem như là phi hữu ái (vibhavataṇhā), nghĩa là có quan niệm của đoạn kiến. Cái gì cũng sợ mất, sợ hết, sợ chết nên hối hả hưởng thụ, quay cuồng hưởng thụ.
Nếu phân tích vi tế thì chúng cũng có cả thảy 36 ái dục thuộc loại phi hữu ái này.
Nói tóm lại, tất cả ái đều không bao giờ chấm dứt; cả 108 loại ái đều được duy trì tiếp diễn, nuôi nấng bởi thọ. Và ái còn là nhân, cho quả là thủ, tiếp nối lộ trình duyên khởi…
Do duyên ái, thủ phát sanh (taṇhāpaccayāupādānaṃ).
9. Thủ (upādāna)
Thủ có nghĩa nắm giữ, chấp chặt, cầm lấy.
Khi ái yêu thích một đối tượng nào đấy thì thủ nắm giữ, đam mê, chấp chặt đối tượng ấy.
Thủ có bốn: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ.
9.1 Dục thủ:
Đây là sự ham muốn thuộc thế giới ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc (địa, hỏa, phong).
Những cảnh sắc khả ái, nam hoặc nữ, áo quần, vàng ngọc, xe hơi, đồ tiêu dùng, tiện nghi sinh hoạt làm phát sanh sự khao khát, ưa thích; và ai cũng muốn chiếm hữu chúng, giữ lấy làm của mình.
Âm thanh biểu lộ qua giọng nói nam, nữ, tiếng nhạc, lời ca (thanh). Cũng tương tự thế là hương, bột thơm, nước hoa hấp dẫn người khác phái (hương); những kích thích, khoái lạc trong các chất ngọt, béo, nồng, cay hoặc các chất say (vị) giường nệm êm ái, y phục mịn màng, sự đụng chạm khác giới tính đều phát sanh xúc dục (xúc).
Sự bám víu, ôm ấp, chiếm giữ cùng với sự khát khao mãnh liệt những đối tượng ngũ trần ấy mà phát sanh dục thủ.
9.2 Kiến thủ:
Với nghĩa tổng quát của chấp thủ này là khư khư bám chấp vào ý kiến, quan niệm, quan điểm, chủ trương, chủ thuyết, lập trường của mình. Và những người như vậy khó ngồi chung “một chiếu đối thoại” để cảm thông, để tìm chân lý. Họ cũng khó mở rộng kiến văn để thấy nhìn, nghe, nghĩ cho xa, cho sâu được. Người có “kiến thủ”, thì mọi cánh cửa xung quanh đều đã bị bít chặt, đóng kín.
Với nghĩa kinh điển, kiến thủ là bảo vệ, bám chấp, khư khư giữ lấy cái thấy biết sai lầm của mình, tà kiến của mình. Nói cách khác, mọi tà kiến trên thế gian đều được xem là kiến thủ. Có những kiến thủ sau đây:
– Tà kiến cho rằng bố thí chẳng có lợi ích gì mà chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Tức là không tin quả của việc lành bố thí.
– Tà kiến cho rằng, những tình cảm qua lại giữa nhau được biểu hiện qua việc tặng kinh sách, tặng quà lưu niệm, quà biếu hiếu hỷ, tiếp khách hoàn toàn vô tích sự.-
– Tà kiến cho rằng, chẳng có kết quả của thiện nghiệp hoặc ác nghiệp trên đời này.
– Tà kiến cho rằng, cha mẹ vì thoả mãn tình dục nên con cái mới ra đời, vậy những cái gọi là ân, hiếu, nghĩa, tình gì gì đó đối với cha mẹ là việc làm vô ích.
– Tà kiến cho rằng, chỉ có muôn vật muôn loài ở thế giới này; chẳng có thế giới khác, chúng sanh khác. Họ bác bỏ luôn lý nhân quả, luân hồi tái sanh. Với tà kiến này, chết là hết. Đây còn được gọi là đoạn diệt luận hay đoạn kiến.
– Tà kiến cho rằng, tất cả mọi sa-môn, bà-la-môn chẳng chứng đắc, chẳng thấy, chẳng giác ngộ gì hết. Tuyệt đối không có thánh nhân trên đời này. A-la-hán và Phật cũng bị tà kiến này phủ nhận.
Những tà kiến như vậy đã vấy độc thế gian; tung bóng tối cho thế gian; phỉ báng đạo đức, luân lý; chà đạp lẽ phải, điều thiện, cái đẹp, nhân văn, nhân tính. Và, nó đóng bít những cánh cửa hướng về chân lý cũng như những ước mơ, hy vọng cao đẹp của con người muôn nơi muôn thuở.
9.3 Giới cấm thủ:
Theo nghĩa kinh điển thì đây là chấp thủ vào những pháp hành sai lạc, chỉ đưa đến ngu si, đau khổ chứ không thể mang lại ánh sáng và hạnh phúc.
Vào thời Phật tại thế có hai người ngoại đạo, một tên là Puṇṇa, một tên là Seniya. Punna sống theo hạnh của con bò, gọi là “ngưu hành giả”. Seniya sống theo hạnh của con chó, gọi là “cẩu hành giả”. Họ sống như con thú mà họ đã chọn. Cũng trần truồng, đi bằng 2 chân, 2 tay; ăn uống, đại tiểu tiện như chó và bò. Và tin rằng, sống như vậy giúp họ tẩy sạch nghiệp cũ, ngăn chặn nghiệp mới; sẽ chấm dứt đau khổ và được hạnh phúc sau khi chết.
Đấy là hình ảnh chấp thủ vào pháp hành sai lạc.
Loại giới cấm thủ khác, là chấp vào, tin vào, thực hành theo những giới cấm, những hình thức tế tự đầy mê tín, như: lễ lạy, cúng kiếng ông táo, gốc đa, thần núi, thần sông. Và tin vào sự cứu rỗi, được hưởng phước, trừ họa nhờ vào các hình thức, lễ nghi ấy.
Loại giới cấm thủ khác nữa. Ví như có người tu Phật, không chịu tu theo bố thí, trì giới, tham thiền, không tu theo giới định tuệ; mà họ tin rằng, chỉ thờ tự, tụng kinh, thờ cho nhiều Phật, Bồ-tát; làm chùa to; Phật lớn, trai đàn chẩn tế cho thật nhiều, nghĩa là chỉ tu theo hình thức lễ nghi thôi, vậy là rơi vào giới cấm thủ (thậm chí, tin rằng có thể giải thoát do tu một pháp hành nào đó mà không liên quan đến Tứ Diệu Đế cũng gọi là giới cấm thủ – theo Thanh tịnh đạo).
Ngay chính những người tu Phật đàng hoàng, chân chính, lúc giữ giới, nếu không có trí tuệ chiếu soi, không thông hiểu giáo pháp căn bản dễ rơi vào giới cấm thủ này. Họ giữ giới nhưng không hiểu nhân quả của giới, sự lợi ích của giới, sự đối trị của giới… nên dễ rơi vào sự chấp thủ vào giới mà chính họ đang giữ.
Ví dụ: Trong giới luật có câu: “Vị tỳ-kheo không nên đem cho đến kẻ thế dù là một que tăm hay môt cọng cỏ…”. Vì giữ giới mà không hiểu nguyên nhân Đức Phật chế định giới ấy, cứ nhất quyết không cho ai, dù một que tăm, một đĩa cơm thừa, một đồng bạc cắc thế là rơi vào giới cấm thủ.
9.4 Ngã ngữ thủ
(Ngữ có nghĩa là giữ gìn. Đồng nghĩa: Ngã kiến thủ, ngã sở thủ, ngã chấp thủ): Tức là chấp thủ không rời vào bản ngã. Tin rằng bản ngã thường còn, có một linh hồn trường cửu đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Linh hồn hay bản ngã ấy là chủ nhân ông của mọi hành vi, lời nói, ý nghĩ.
Chúng ta thường “chấp ta”, “chấp ngã” không rời. Khi nói
“khổ cái thân tôi”, là ta đã đồng hóa cái tôi và cái thân (sắc).
Khi nói “tôi đói, tôi lạnh, tôi mát”, là ta đã đồng hóa cái tôi và cảm giác (thọ).
Khi nói “tôi tưởng tượng”, là ta đã đồng hoá cái tôi và tri giác (tưởng).
Khi nói “tôi có chủ ý, tôi cố ý làm như vậy”, là ta đã đồng hóa cái tôi với ý chí (hành).
Khi nói “tôi nghe ra điều này, tôi suy nghĩ điều kia” là ta đã đồng hóa cái tôi với nhận thức (thức).
Với “ngã kiến” muôn đời, chúng ta thường đồng hóa ta với các uẩn, không bao giờ có trí tuệ để thấy rõ chúng chỉ là sắc và danh, là những yếu tố vật chất cùng yếu tố tâm lý sinh diệt, duyên khởi trùng trùng: “Có cái này thì có cái kia, không có cái này thì cái kia không có, cái này diệt thì cái kia diệt”.
Trong sự vận hành tương quan duyên khởi ấy, tất cả pháp đều vô tự tính, vô ngã tính, luôn chuyển động, luôn di động, luôn duyên hóa để cái này diệt thì cái kia sinh, tạo ra sự đổi thay, mới mẻ muôn đời ở thế gian.
Không có ai có thể làm chủ sắc vì sắc vô ngã, duyên khởi, vô tự tính. Không ai có thể làm chủ thọ, vì thọ vô ngã, duyên khởi, vô tự tính. Không ai có thể làm chủ tưởng, hành, thức vì chúng vô ngã, duyên sinh, vô tự tính.
Do vậy, ngã kiến là một ảo kiến, một thấy biết sai lầm có một cái ngã, cái ta, cái tôi. Rồi còn chấp thủ vào nó nữa, chấp thủ không rời từ khi vừa sinh ra đến khi nhắm mắt xuôi tay. Rồi kiếp sau nữa, kiếp sau nữa trong cuộc luân hồi tử sanh vô tận, vô định.
Đắc thánh quả Nhập lưu, đoạn trừ được 3 kiết sử: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Vị thánh đã nhận thấy không còn chấp vào sắc thân này nữa, cái sắc ấy không phải là thân của ta, tự ngã của ta. Nhưng đến thánh quả A-la-hán, lúc 5 kiết sử cuối cùng được đoạn lìa (sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm, vô minh) thì mới thật sự thấy rõ ngũ uẩn vô ngã, mới tận diệt ảo kiến về ngã.
Nói tóm lại, 4 loại thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ là duyên sanh hữu để chúng sanh tạo các nghiệp hữu (kammabhava) và sanh hữu (upapattibhava).
Do duyên thủ, hữu sinh khởi (upādāna paccayā bhavo).
10. Hữu (bhava)
Có nghiệp hữu liền có sanh hữu.
– Nghiệp hữu: Nếu nghiệp hữu là nhân thì sanh hữu là quả tức cảnh giới tái sanh.
Dẫn dắt, chủ động, điều động tất cả các nghiệp là do tư tâm sở (cetanā). Vậy, tất cả tư tâm sở trong 29 tâm sau đây, là nghiệp hữu, đưa chúng sanh tái sanh theo cảnh giới tương ứng trong 3 cõi, 4 loài.
– Tư tâm sở trong 12 bất thiện tâm.
– Tư tâm sở trong 8 dục giới đại thiện tâm.
– Tư tâm sở trong 5 sắc giới thiện tâm.
– Tư tâm sở trong 4 vô sắc giới thiện tâm.
– Sanh hữu: Sanh hữu có 3 loại chính:
- Dục hữu (kāmabhava): Danh sắc chúng sanh trong cõi dục (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời).
- Sắc hữu (rūpabhava): Là danh sắc những vị phạm thiên hữu sắc.
- Vô sắc hữu (arūpabhava): Là danh uẩn (tứ uẩn) của những vị phạm thiên vô sắc.
Và, khi nói hữu tưởng hữu (saññībhava) (Saññī: Nghĩa là có tưởng.) là chỉ 20 cõi chúng sanh “có tưởng” thô; ngoại trừ cõi vô tưởng và cõi phi tưởng phi phi tưởng.
Khi nói vô tưởng hữu (asaññībhava) là chỉ sắc và danh tiềm miên của phạm thiên vô tưởng.
Khi nói phi tưởng phi phi tưởng hữu (saññīnāsaññībhava) là
chỉ danh uẩn của những vị phạm thiên cao nhất.
Khi nói nhất uẩn hữu (ekavokārabhava) là chỉ vị phạm thiên chỉ có 1 uẩn là sắc uẩn (vô tưởng thiên).
Khi nói tứ uẩn hữu (catuvokārabhava) là chỉ hữu của những vị phạm thiên vô sắc, chỉ có danh uẩn (tứ uẩn) không có sắc uẩn.
Khi nói ngũ uẩn hữu (pancavokārabhava) là chỉ hữu của tất cả chúng sanh có đầy đủ ngũ uẩn.
Nói tóm lại, sanh hữu là danh sắc của kiếp sống mới, là kết quả của nghiệp hữu, như vậy chúng bao gồm thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ – của kiếp sống vị lai. Ở vị lai, thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ là quả, còn nhân tạo kiếp sống mới là ái, thủ, hữu lại làm nên nghiệp hữu và sanh hữu cho kiếp kế tục.
Do duyên hữu, sanh sanh khởi (bhavapaccayājāti).
– Sanh (jāti)
Sau khi có nghiệp hữu liền có sanh hữu. Sanh hữu tức thức tái sanh đi tìm cảnh giới tương ứng ở kiếp sau.
Sự sanh, tức là tam giới quả tâm.
Tam giới quả tâm trong ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Tam giới quả tâm ở trong bốn loài là noãn, thai, thấp, hóa.
Tam giới quả tâm trong 3 loại chúng sanh là ngũ uẩn, tứ uẩn và nhất uẩn.
Chúng sanh có ngũ uẩn là ở 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới.
Chúng sanh có tứ uẩn là ở 4 cõi vô sắc.
Chúng sanh có nhất uẩn là cõi sắc giới vô tưởng thiên.
Như vậy, sanh là do nghiệp hữu chi phối, tạo nên thức tái sanh vào các cảnh giới tương ứng.
Do duyên sanh, lão tử phát sanh (jātipaccayā jarāmaraṇa).
– Lão, tử ( jarāmaraṇa)
Khi có sanh thì có già, chết. Mà già, chết là quả đương nhiên của sanh. Điều ta cần lưu ý là khi sanh tức là danh sắc sanh. Danh là tam giới quả tâm (dị thục) và sắc, là do nghiệp sanh. Danh sắc ấy có sanh thì có già, lão – tức là trải qua những sát-na trong các lộ trình tâm mà biến hoại, đổi khác, già lụn… Và chết chính là kết thúc một đời sống sắc pháp, 17 lần lâu hơn một danh pháp.
Sự sinh và diệt của danh sắc ấy khó nhận biết, nhưng sanh, già lão, tử của sắc thân vật lý của mỗi chúng sanh thì ai cũng có thể thấy, cảm nhận được. Và khi một chúng hữu tình có mặt trên cuộc đời đến lúc chấm dứt hơi thở, một kiếp sống, từ sanh đến lão, tử ấy thường kéo theo sầu, bi, khổ, ưu, não như là một nghiệp phận không rời.
Như vậy, Thập nhị nhân duyên là một chuỗi mắc xích dính liền nhau bởi 12 khoen, liên tục tiếp diễn tạo nên vòng tròn luân hồi tái sanh vô thỉ vô chung trong cuộc sinh tử. Chúng chịu sự tác động tương duyên nhân quả trùng trùng.
– Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.Nếu nhân hiện tại là ái, thủ, hữu thì quả vị lai là sanh, lão tử. Diễn đạt cách khác:
– Nếu nhân quá khứ là vô minh, hành thì vô minh, hành ấy là ái, thủ, hữu. Vì có ái, thủ, hữu nên có nghiệp hữu và sanh hữu.
– Nếu có nghiệp hữu, sanh hữu thì có quả hiện tại là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
– Có thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ thì có ái, thủ, hữu (tức vô minh và hành) là nhân hiện tại để cho quả vị lai là sanh, lão tử hay thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ…
Sự diễn tiến, quy trình nhân-duyên-quả ấy nó nằm trong một vòng tròn vô thỉ, vô chung.
Vòng thập nhị nhân duyên này còn được gọi là pháp phát sanh tùy thuộc. Nghĩa là tùy thuộc cái này, cái kia có, tùy thuộc không có cái này thì cái kia không. Nhân và duyên, ta cũng có thể dùng “tựa” và “khởi”: “Tựa” cái này, “khởi” cái kia; “không tựa” cái này thì “không khởi” cái kia.
Trong 12 khoen kể trên, cái nào cũng là nhân, cái nào cũng là quả. Tùy thuộc nhân này cho quả này, quả này lại làm nhân để sinh quả khác… cứ tương tục vô cùng tận. Ta cũng có thể cô đọng 12 nhân duyên thành 3 khoen nhân quả, ấy là tam luân.
- Phiền não luân (kilesavaṭṭa): Đấy là vô minh và ái dục.
- Nghiệp luân (kammavaṭṭa): Có vô minh, ái dục nên có thủ và hữu – tức nghiệp hữu, hành.
- Quả luân (vipākavatta): Vì có nghiệp hữu tức có sanh hữu, tức là thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ. Vì có xúc, thọ… nên có ái, thủ, hữu và cứ thế nó cho nhân, cho quả trong vòng luân hồi.
Thập nhị nhân duyên là gì Giải thích thập nhị nhân duyên theo luật hồi, sinh tử.
Nội dung trích từ sách:
– Đức Phật và Phật Pháp I Phạm Kim Khánh (Việt dịch)
– Phật học tinh yếu I Tỳ Khưu Giới Đức
Chia sẻ nội dung: Vị Cư Sĩ Trẻ